Đồng chí Nguyễn Văn Cừ là một chiến sĩ cộng sản kiên cường, nhà tư tưởng - lý luận xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam. Với tác phẩm Tự chỉ trích, xuất bản vào ngày 20-7-1939 của đồng chí Nguyễn Văn Cừ là đóng góp quan trọng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; là một tác phẩm lý luận mẫu mực về tinh thần phê bình và tự phê bình, đúng đắn của người đảng viên.
Điểm nổi bật của tác phẩm khẳng định sự cần thiết về việc đấu tranh tự phê bình và phê bình trong Đảng và đảng viên. Theo đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đối với một đảng chính trị, việc mắc phải khuyết điểm, thậm chí sai lầm là một thực tế khó tránh. Cho nên, phải nhờ tự phê bình và phê bình mà Đảng nhận rõ khuyết điểm, mạnh dạn thừa nhận khuyết điểm và kịp thời sửa đổi. Thái độ và tinh thần làm việc như vậy sẽ làm cho Đảng mạnh lên, quần chúng thêm tin tưởng và kẻ địch không có cớ để lợi dụng.
“Tự chỉ trích” là một tác phẩm lý luận mẫu mực về tinh thần phê bình và tự phê bình, đúng đắn của người đảng viên
Về sự cần thiết phải tiến hành tự phê bình và phê bình, bởi vì, “Đảng còn trẻ tuổi nên còn phạm nhiều khuyết điểm, nhiều sự sai lầm; điều ấy Đảng luôn luôn “Tự chỉ trích” thành thật và mạnh dạn công nhận để sửa đổi”[1]. Do đó, Đảng hoan nghênh sự phê bình của mỗi đảng viên nhưng sự phê bình đó phải có nguyên tắc và không làm giảm uy tín của Đảng.
Về mục đích, động cơ của tự phê bình và phê bình: “để chỉ có một ý chí duy nhất là ý chí của Đảng, ngàn người sẽ như một để thực hành ý chí ấy”[2] và là “để huấn luyện quần chúng và giúp đảng viên tự huấn luyện, để làm tăng uy tín và ảnh hưởng của Đảng, để cho Đảng càng được thống nhất và củng cố, để đưa phong trào phát triển lên, đưa cách mạng tới thắng lợi”[3]. Bởi vì, “Phê bình Đảng là để thống nhất tư tưởng, để rèn luyện mình, để đề cao uy tín và ảnh hưởng của Đảng, nhằm làm cho Đảng ngày càng mạnh và cách mạng ngày càng phát triển. Muốn vậy, phê bình phải nắm vững mục đích xây dựng Đảng, xây dựng đồng chí mình, không được đả kích hoặc cường điệu những sai lầm khuyết điểm của đồng chí mình”[4]. Chỉ trên cơ sở đó, với động cơ đó, đấu tranh tự phê bình và phê bình mới có tác dụng thiết thực đối với sự phát triển của Đảng, mới làm cho Đảng mạnh lên.
Về nội dung đấu tranh phê bình và tự phê bình: nhằm uốn nắn những lệch lạc trong phong trào dân chủ như chủ quan, tả khuynh, hữu khuynh, nội bộ mất đoàn kết; sai lầm trong phương thức vận động quần chúng… Những sai lầm, khuyết điểm này ảnh hưởng rất nghiêm trọng tới việc thực hiện các mục tiêu chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng, “Đảng có bổn phận phải phân tích xác thực hoàn cảnh, không bi quan, hoảng hốt mà cũng không đắc chí tự mãn để tìm ra những nguyên nhân thất bại và nghiên cứu phương pháp sửa chữa và tiến thủ”[5].
Về phương pháp phê bình và tự phê bình: “Mỗi đảng viên có quyền tự do thảo luận, tự do chỉ trích, miễn là sự thảo luận luôn luôn mang tinh thần Bôn-sê-vích, không làm giảm uy tín của Đảng, nhằm làm cho kẻ thù không thể hí hửng tìm ở đây một sự chia rẽ hay mầm bè phái gì giữa những người cộng sản. Vì trong thảo luận, thiểu số phục tùng đa số, chỉ có một ý chí duy nhất là ý chí của Đảng, nghìn người như một để thực hành ý chí ấy”[6].
Về thái độ của tự phê bình và phê bình, “Tự chỉ trích Bônsêvích không phải là công kích Đảng, mạt sát Đảng, đặt danh dự cá nhân lên trên tất cả quyền lợi của Đảng, của cách mệnh”[7]; hay “đem ý kiến riêng dù cho đúng - đối chọi với Đảng, vin vào một vài khuyết điểm mà mạt sát Đảng, phá hoại ảnh hưởng của Đảng, gieo mối hoài nghi, lộn xộn trong quần chúng, gây mầm bè phái chia rẽ trong hàng ngũ Đảng”[8], mà nhất thiết phải xuất phát từ động cơ xây dựng Đảng.
Về tinh thần tự phê bình và phê bình: nhìn thẳng vào khuyết điểm, dám nhận những sai lầm của mình, “Chúng ta phải biết nhìn nhận những khuyết điểm về chủ quan mà chính ta gây ra, chính ta phải chịu hoàn toàn trách nhiệm”[9]. Bởi vậy, cần “Công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những nhầm lỗi của mình và tìm phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu thỏa hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng, mà là làm cho Đảng được thống nhất, mạnh mẽ”[10]. Muốn vậy, phải coi tự phê bình và phê bình là nguyên tắc tối cao, là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Cùng với đó, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã chỉ ra nhiều cách thức và mức độ tự phê bình và phê bình, đối với những đối tượng khác nhau, như: có thứ chỉ trích của người cách mạng tìm tòi những lầm lỗi của mình, nghiên cứu phương pháp để sửa đổi, để tiến lên; có thứ chỉ trích của người cách mạng vạch mặt nạ bọn phản động; có thứ chỉ trích thân mật những chỗ nhu nhược của bạn đồng minh; có thứ chỉ trích nghiêm khắc kẻ lung lay, do dự để mong kéo họ về mình…
Có thể khẳng định, tác phẩm “Tự chỉ trích” của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ là một ấn phẩm lý luận chính trị nổi tiếng, tác phẩm đã nêu tấm gương sáng về tính chiến đấu, về việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng, bảo đảm tính đúng đắn, trong sáng và tất thắng của đường lối chính trị của Đảng. Tác phẩm còn là văn kiện tổng kết những kinh nghiệm phong phú về việc thực hiện chính sách mặt trận, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, là cẩm nang của Đảng trong mọi thời kỳ về xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất và sức chiến đấu của Đảng nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Có thể thấy, chưa bao giờ vấn đề đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên lại nóng bỏng như hiện nay. Mà nguyên nhân chủ quan của sự suy thoái chủ yếu do nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên về tự phê bình và phê bình chưa sâu sắc hoặc thiếu tự giác nhận khuyết điểm, trách nhiệm trong công việc; ở một số nơi nền nếp, chế độ tự phê bình và phê bình chưa được thực hiện nghiêm: “Tự phê bình và phê bình ở không ít nơi còn hình thức; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi; một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ được giao”[11]. Do đó, tự phê bình và phê bình đang trở thành yêu cầu cấp thiết để ngăn chặn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, góp phần làm trong sạch Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vì thế, để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở cần “Kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng các giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trung ương đến chi bộ,…”[12]. Đồng thời, trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình cần có động cơ trong sáng, thái độ chân thành, “cấp ủy cấp trên chủ động gợi ý kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân ở những nơi có vấn đề phức tạp, có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; coi trọng kiểm tra việc khắc phục hạn chế, khuyết điểm”[13]. Sau phê bình phải có biện pháp cụ thể, sát thực để khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; gắn tuyên truyền, biểu dương gương “người tốt, việc tốt” với công tác phát hiện, phê phán, lên án các hành vi sai trái, nhận thức lệch lạc của cán bộ, đảng viên.
Đặc biệt, phát huy tính tích cực, chủ động tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên. Đây là giải pháp có ý nghĩa quyết định đến việc rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực, phương pháp, tác phong công tác; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, qua đó, “Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên”[14]. Bên cạnh đó, từng cán bộ, đảng viên cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu, tự giác tu dưỡng, rèn luyện của mình trong thực hiện nhiệm vụ, chức trách được giao
Thành kính và tri ân công lao, đóng góp của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam; mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cần tiếp tục học tập, vận dụng tinh thần, tư tưởng tự phê bình và phê bình nêu trong tác phẩm “Tự chỉ trích” góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tổ chức và cán bộ.
Cẩm Trang
[1] Nguyễn Văn Cừ: Một số tác phẩm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 218.
[2] Nguyễn Văn Cừ: Một số tác phẩm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 216
[3] Nguyễn Văn Cừ: Một số tác phẩm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 219
[4] Nguyễn Văn Cừ: Một số tác phẩm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 219
[5] Nguyễn Văn Cừ: Một số tác phẩm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 220.
[6] Nguyễn Văn Cừ: Một số tác phẩm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 222.
[7] Nguyễn Văn Cừ: Một số tác phẩm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 217.
[8] Nguyễn Văn Cừ: Một số tác phẩm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 219.
[9] Nguyễn Văn Cừ: Một số tác phẩm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 220.
[10] Nguyễn Văn Cừ: Một số tác phẩm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 218.
[11] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H. 2021, Tập II, tr. 179.
[12] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H. 2021, Tập II, tr. 236.
[13] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H. 2021, Tập II, tr. 236 -237.
[14] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H. 2021, Tập II, tr. 237.